ThS BS Trần Hữu Hiền
Tốt nghiệp bằng DIU ĐH CORSE Cộng Hoà Pháp
Bác sĩ điều trị khoa Nội bệnh viện quốc tế Vinmec tp HCM
Đặt lịch khám zalo 0987842200
1. Bệnh thận do đái tháo đường có đặc điểm là sự bài tiết albumin trong nước tiểu tăng dần trong nhiều năm, kèm theo huyết áp tăng chậm và tốc độ lọc cầu thận (GFR) giảm.
2. Nguy cơ mắc bệnh tim mạch tăng khi albumin niệu tăng.
3. Một phần ba số người mắc đái tháo đường sẽ tiến triển thành tăng nặng albumin niệu và có nguy cơ cao tiến triển thành bệnh thận giai đoạn cuối (ESKD).
4. Các yếu tố liên quan chặt chẽ nhất đến sự tiến triển của bệnh thận là kiểm soát đường huyết và huyết áp dưới mức tối ưu cũng như albumin niệu nền.
5. Việc sàng lọc bệnh thận do tiểu đường nên được thực hiện hàng năm bằng cách đo tỷ lệ albumin/creatinine trong nước tiểu và GFR ước tính (eGFR).
6. Kiểm soát đường huyết và huyết áp tối ưu là yếu tố chìa khóa để ngăn ngừa bệnh thận.
7. Nếu có lượng albumin niệu tăng vừa phải hoặc cao, nên bắt đầu sử dụng thuốc ức chế hệ thống renin-angiotensin và điều chỉnh liều đến liều tối đa có thể dung nạp được.
8. Duy trì huyết áp ở mức 120–130/75 mmHg, phối hợp thêm các thuốc hạ huyết áp khác nếu cần thiết sẽ làm giảm tốc độ giảm GFR hàng năm từ 10-12 xuống 3–5 ml/phút/1,73 m2.
9. Giảm lượng protein trong chế độ ăn xuống 0,8 g/kg thể trọng/ngày có thể làm chậm quá trình suy giảm chức năng thận.
10. Kiểm soát tích cực các yếu tố nguy cơ tim mạch khác và dùng aspirin làm giảm tỷ lệ mắc các biến cố tim mạch và tiến triển của bệnh thận khoảng 60%.
11. Thuốc ức chế chất đồng vận chuyển natri-glucose 2 làm chậm sự tiến triển của bệnh thận và giảm các biến cố tim mạch, nhập viện vì suy tim và tử vong ở những người mắc đái tháo đường típ 2 và bệnh thận mà không phụ thuộc vào sự thay đổi của glucose.
12. Suy thận do đái tháo đường là nguyên nhân phổ biến nhất dẫn đến chạy thận nhân tạo hoặc ghép thận.